Hình thành Đại Việt Quốc dân Đảng

Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn

Tập tin:Trương Tử Anh.jpgChân dung lãnh tụ Trương Tử Anh năm 1946.

Năm 1934, Trương Tử Anh, người Phú Yên, ra Hà Nội theo học Luật khoa Viện Đại học Đông Dương. Là một người có tinh thần dân tộc, trong thời gian học tập, ông chú ý nghiên cứu nhiều về các triết thuyết, các chủ nghĩa chính trị đang thịnh hành trên thế giới thời bấy giờ. Trong các tiểu luận viết từ năm 1935, ông từng viết: "Những triết thuyết, những chủ nghĩa chính trị đương thời đều không thích hợp với dân tộc Việt Nam và đều có sai lầm". Từ đó, ông manh nha việc xây dựng một chủ thuyết của riêng nhằm định hướng cho những hoạt động chính trị của mình về sau này.

Ngày 10 tháng 12 năm 1938, Trương Tử Anh công bố một chủ thuyết tư tưởng về triết học và chính trị, gọi là Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn. Chủ thuyết này về sau được các đồng chí của ông phát triển thêm, khái quát thành những điểm chính sau:

  • Con người gồm những bản năng cơ bản là Vị kỷ, Tình dụcXã hội
  • Để sinh tồn thì các bản năng này phải mạnh hơn những cá thể khác.
  • Để bản năng mạnh mẽ cần có Sức mạnh, Biến cải và Hợp quần.

Tóm lại, để tồn tại, mỗi cá thể phải tạo cho mình sự vượt trội hơn đa số cá thể khác trong xã hội. Mở rộng ra, mỗi dân tộc, muốn sinh tồn phải có được ưu thế tương tranh để vượt lên được dân tộc khác. Điều này, về sau được ông nêu rõ trong Tuyên ngôn thành lập Đảng: "Chúng ta phải nhận thức rằng trên lập trường quốc tế, giữa các quốc gia chỉ có quyền và lợi mà thôi. Mọi hành động của nước này đối với nước khác không ngoài mục đích ấy".

Suốt thời gian học tại Viện Đại học Đông Dương, Trương Tử Anh đã truyền bá chủ thuyết Dân tộc sinh tồn và thu hút được một số bạn đồng chí trẻ. Ngày 10 tháng 12 năm 1939, ông tuyên bố thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng và lấy Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn làm nền tảng lý thuyết.

Tổ chức ban đầu

Cơ cấu trung ương đầu tiên của Đảng gồm 16 người với Trương Tử Anh làm Đảng trưởng, có trụ sở đặt ở Hà Nội. Trung ương trực tiếp điều hành Xứ bộ Bắc Việt trong khi Trung Việt và Nam Việt có xứ bộ riêng[2]. Ngoài ra Đảng còn có nhân sự hoạt động ở LàoCao Miên. Bên cạnh đó, một chi bộ Đảng đặc biệt được thành lập ở Phú Yên được gọi là Chi bộ Đảng-trưởng đặt dưới quyền trực tiếp của Trung ương. Những đảng viên chủ chốt bấy giờ có Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, Phan Cảnh Hoàng, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Định Quốc, Đặng Xuân Tiếp, Đặng Vũ Lạc, Ngô Gia Hy, Đặng Văn Sung, Bùi Diễm, Trần Trung Dung, Nguyễn Đình Luyện, Phan Huy Quát, Lê Thăng, Bửu Hiệp, Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu, Dương Thiệu Di. Nguyễn Tôn Hoàn được giao phó làm phát ngôn viên của Đảng và liên lạc viên giữa các Xứ bộ.[3]

Mặt trận Đại Việt Quốc gia-Liên minh và Ủy ban Chính trị Bắc Kỳ

Được vài năm sau khi thành lập, Đại Việt Quốc Dân Đảng kết hợp với Đại Việt Quốc xã của Nguyễn Xuân Tiếu; Đại Việt Duy dân của Lý Đông A; và Đại Việt Dân chính của Nguyễn Tường Tam thành lập một mặt trận chung với tên gọi là Đại Việt Quốc gia Liên minh với mục đích liên kết với Nhật để đánh Pháp vào năm 1944. Ngoài ra Tân Việt Nam Quốc dân Đảng do Nhượng Tống lãnh đạo cũng gia nhập liên minh này. Ban Chấp hành Trung ương bầu Nguyễn Xuân Tiếu làm chủ tịch.[4]

Khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì Đại Việt Quốc gia Liên minh đứng ra lập Ủy ban Chính trị Bắc Kỳ mong tiếp quản quyền điều hành từ tay người Nhật nhưng chính phủ Tokyo chọn duy trì thể chế quân chủ của triều đình Huế và ủy thác cho chính phủ Trần Trọng Kim của vua Bảo Đại. Thủ tướng Trần Trọng Kim cho lập Ủy ban Giám đốc Chính trị Miền Bắc với Nguyễn Xuân Chữ, Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc Kỳ), Trần Văn Lai (Thị trưởng Hà Nội), Nguyễn Tường Long (đảng viên Đại Việt), cùng Đặng Thai Mai, với nhiệm vụ ổn định tình hình ở Bắc Bộ. Tuy nhiên, trước khi Ủy ban kịp hoạt động thì lực lượng Việt Minh đã giành được chính quyền, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị khiến Ủy ban mất cơ sở hoạt động, phải giải tán. Đại Việt Quốc gia Liên minh cũng tan rã vì các đảng thành viên không nhất trí quan điểm hành động trong giai đoạn mới.

Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam

Cờ hiệu của Đại Việt Quốc dân Đảng, sau dùng chung cho Mặt trận Quốc dân Đảng kể cả Việt Nam Quốc dân Đảng

Sau khi giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội-Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng vì cho rằng "Đại Việt quốc gia xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam và Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam"[5][6]

Việc giải tán Đại Việt Quốc dân Đảng đã làm các đảng viên Đại Việt mất khả năng tham chính. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc Tổng tuyển cử, ngày 15 tháng 12 năm 1945, Đại Việt Quốc dân đảng cùng với Việt Nam Quốc dân-đảng (lãnh tụ là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân Chính-Đảng (lãnh tụ là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam để chống lại "phe Cộng sản". Cờ hiệu của Đại Việt là lá cờ nền đỏ, tròng xanh, sao trắng và ca khúc "Việt Nam Minh châu trời đông" của Hùng Lân được dùng chung cho cả Mặt trận.[7][8] Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận.

Đối với chương trình hành động của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ Liên hiệp:

  1. Phát động phong trào toàn dân bất hợp tác với Việt Minh
  2. Tách rời cựu hoàng Bảo Đại ra khỏi Việt Minh và vô hiệu hóa Quốc hội Việt Minh
  3. Thành lập một Trung tâm chính trị ở hải ngoại
  4. Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.

Tuy nhiên kế hoạch này cũng gây ra một sự bất đồng trong nội bộ Mặt trận, cũng như các đồng minh chống Việt Minh. Việt Nam Cách mệnh Đồng minh-Hội (Việt Cách) tuy cũng có lập trường đối lập nhưng chấp nhận thỏa hiệp với Việt Minh; Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Cách tham gia Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ chức Phó Chủ tịch. Hai lãnh tụ của 2 đảng thành viên của Mặt trận là Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính Đảng) và Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân đảng - Việt Quốc) sau đó cũng đã tham gia Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với cương vị Bộ trưởng Ngoại giao và Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến toàn quốc. Do việc này, trên thực tế, hoạt động của Mặt trận Quốc dân Đảng chỉ còn do Đại Việt Quốc dân Đảng duy trì.[9]

Mặt trận Quốc gia Liên hiệp

Nam Bộ, Đại Việt Quốc dân Đảng liên kết với những nhóm không Cộng sản khác như Việt Nam Quốc dân Đảng do Phạm Hữu Đức lãnh đạo, lực lượng Cao Đài của Trình Minh Thế, lực lượng Phật giáo Hòa Hảo của đức Huỳnh Phú Sổ và nhóm Bình Xuyên của Lê Văn Viễn, để thành lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp vào tháng 4 năm 1946 với Huỳnh Phú Sổ làm Chủ tịch. Việt Minh cũng gửi đại diện tham gia trong Mặt trận nhưng đến tháng 5 thì rút lui.[10][11]

Phát triển lực lượng và bị trấn áp

So với các đảng phái khác, vốn có thực lực bởi hậu thuẫn bởi nước ngoài (Việt Quốc, Việt Cách) hoặc tôn giáo (Cao Đài, Hòa Hảo), Đại Việt chỉ thuần túy dựa vào các đảng viên, thiếu hẳn lực lượng quân sự mạnh. Nhận thức được điều này, dưới danh nghĩa Mặt trận Quốc dân Đảng ở miền Bắc và Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ở miền Nam, Đại Việt cho ra nhật báo Việt Nam, tuần báo Chính nghĩa và đặc san Sao trắng, dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng bộ đặt ở Hà Nội.[12] Những ấn phẩm khác có báo Đồng minh, và Thanh niên. Đảng cũng lập ra Phong trào Quốc gia Bình dân và Đoàn Thanh niên Bảo quốc để vận động và tranh thủ lực lượng quần chúng tranh đua với Việt Minh.[13]

Rải rác khắp ba miền, Đảng cũng cho thành lập chiến khu ở Kép (Bắc Giang), Lạc Triệu (Bắc Giang), Yên Bái, Di Linh (huyện Nông Cống, Thanh Hóa), An Điền (huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định), An Thành (Vĩnh Long), và Ba Rài (Mỹ Tho) để xây dựng các căn cứ và xây dựng lực lượng quân sự mạnh chống lại chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo. Riêng ở Lạc Triệu và Yên Bái thì có trường huấn luyện sĩ quan.[14]

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, khi Chính phủ Liên hiệp ký kết Hiệp định Sơ bộ với Pháp, đồng ý cho Pháp kéo ra phía bắc vĩ tuyến 16 để giải giới quân đội Nhật Bản thay cho quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng theo Hiệp ước Pháp-Hoa trước đó. Việc này đã làm cho Việt Quốc và Việt Cách, hai đảng có hậu thuẫn mạnh từ chính phủ Trùng Khánh, mất đi chỗ dựa, dẫn đến yếu thế trước sức mạnh của Việt Minh. Tranh chấp giữa Việt Minh và các đảng phái khác trong Chính phủ Liên hiệp vào thời điểm này càng sâu sắc, thậm chí đã bùng dậy xung đột võ trang. Nhân cơ hội người Pháp chưa có hành động võ trang, chính phủ Việt Minh tìm cách tiễu trừ thế lực của Việt Quốc, là đảng "đối lập" có thực lực quân sự, bắt giam nhiều lãnh đạo của Việt Quốc dựa theo vụ án Ôn Như Hầu, sau đó tấn công căn cứ quân sự Việt Quốc tại Vĩnh Yên. Một số lãnh đạo của Mặt trận Quốc dân Đảng cũng bị mất tích.[15].

Đại Việt cũng nằm trong kế hoạch diệt trừ thế lực chống đối của chính phủ Việt Minh. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi tiếng súng báo hiệu cuộc chiến tranh Đông Dương bắt đầu thì đảng trưởng Trương Tử Anh đột ngột mất tích. Một số người cho là bị Việt Minh thủ tiêu.[16]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đại Việt Quốc dân Đảng http://www.daivietquocdandang.com/ http://www.daivietquocdandang.com/lichsudang.htm http://www.daivietquocdandang.com/nvck.htm http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp... http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp... http://www.nguoi-viet.com/little-saigon/dai-viet-q... http://www.daivietquocdandang.net/ http://www.daivietquocdandang.net http://www.daivietquocdandang.net/tongdoanthanhnie... http://hqvnch.net/default.asp?id=640&lstid=178